Shemale Là Gì Vậy ? Sự Khác Biệt Giữa Ladyboy Và Shirting

Tóm tắt từ viết tắt LGBT là ghi chú đến những người đồng tính nữ, đồng tính nam, lưỡng tính luyến ái, xuyên giới và chuyển đổi giới tính, nhấn mạnh sự đa dạng về tính dục và giới tính của con người. Cộng đồng LGBT và truyền thông đã chấp nhận viết tắt này. Tại một số quốc gia, cụm từ này được bổ sung thêm chữ “I” (Intersex) vào cuối.

Bạn đang xem: Địt nhau giữa người đàn ông và người trans.

Bạn Đang Xem: Shemale Là Gì Vậy ? Sự Khác Biệt Giữa Ladyboy Và Shirting

Điểm lưỡng tính (hoặc Intersexuality) – Intersex là những người bị rối loạn gene vì vậy họ có cả bộ phận sinh dục nam và nữ. Ví dụ, một trẻ sơ sinh có thể có cả tinh hoàn và tử cung.

Vẫn có nhiều tranh cãi xoay quanh định nghĩa của hai thuật ngữ Trans-gender và Trans-sexual. Tuy nhiên, albus muốn trình bày quan điểm của viện nghiên cứu iSEE, dựa trên các tài liệu được thu thập.

Những người thuộc cộng đồng trans-gender là những người có giới tính nam hoặc nữ nhưng lại mong muốn được xác nhận với giới tính khác, mặc dù họ chưa trải qua phẫu thuật chuyển giới hoặc chưa có sự can thiệp của y tế.

Cindy Thái Tài là một người chuyển giới nổi tiếng tại Việt Nam, là những người có giới tính khác với giới tính sinh lý và mong muốn được xã hội chấp nhận giới tính của mình, vì họ cho rằng giới tính sinh ra của họ không phù hợp với bản chất con người thật sự của mình và đã tìm đến sự trợ giúp của Y học để thay đổi giới tính.

Tendency of same-sex romantic love (or Homosexuality) refers to individuals who are inclined towards same-sex sexual relationships, including both gay and lesbian.

Tính lưỡng tính hay còn gọi là Bisexuality là khả năng yêu đồng thời cả người cùng giới và người khác giới của một số người.

Tính chất đồng tính (hoặc Homosexuality) là những người có xu hướng tình dục cùng giới, bao gồm nam hoặc nữ.

Trào lưu tình yêu đa dạng giới tính (hoặc Pansexuality) là những người có xu hướng tình dục phát sinh từ niềm đam mê vẻ đẹp, tình cảm lãng mạn và khát khao cho bất kỳ cá nhân nào, không phân biệt giới tính.

Asexual Orientation (hoặc Asexuality): xu hướng phi luyến ái (hoặc vô tính). Những người không có hứng thú về mặt tình dục.

Câu hỏi: Chưa xác định được loại nào.

Giới tính là khái niệm xã hội phân chia con người theo hai nhóm nam và nữ.

Tendency of sexuality (or Sexual Orientation) refers to the emotional, romantic, and sexual attraction towards people of the same gender, opposite gender, or both. It is a long-term aspect.

Tự nhận diện giới tính hay hình ảnh của bản thân là sự lựa chọn của mỗi cá nhân.

Ví dụ, một người chuyển giới (chưa phẫu thuật giới tính) mặc quần áo nữ giới. Giới tính của người đó là nữ (thể hiện bằng cách ăn mặc) nhưng cảm hứng tình dục của người đó là đồng tính (quan hệ tình dục với cùng giới).

Đồng tính nam không có nghĩa là MSM (Men having sex with men) – một nhóm những người nam có hành vi quan hệ tình dục đồng giới với nam. MSM bao gồm cả đồng tính nam và những người có hành vi tương tự, ví dụ như mại dâm nam hoặc trong các quốc gia có văn hóa quan hệ tình dục đồng giới…V..V… Các chuyên gia Xã hội học, Tình dục học tại Việt Nam đang quan tâm đến nghiên cứu về MSM hơn, bởi vì họ quan tâm đến sức khỏe tình dục. Cộng đồng MSM tại Việt Nam có nhóm Bầu Trời Xanh (Hồ Chí Minh) và Hải Đăng (Hà Nội) đại diện.

Là những phụ nữ có quan hệ tình dục với phụ nữ khác, được gọi là WSW (Women having sex with women). – Tương tự như MSM, nhóm WSW.

Xem Thêm : Hoa phượng tiếng anh là gì? Và những thông tin về hoa phượnghoatuoi

Queer: khác biệt. Được sử dụng để chỉ những người thuộc cộng đồng LGBT.

Ngôn ngữ thông dụng She-male/She-man (hay ketoey trong tiếng Thái) được sử dụng để ám chỉ những người nam đã được tiêm hormone (hoặc bơm ngực) để có được bộ ngực giống phụ nữ nhưng vẫn giữ nguyên bộ phận sinh dục của nam giới. Tranny hay ladyboy cũng là các thuật ngữ khác được dùng để chỉ đến những người này.

Các nữ đồng tính có xu hướng ăn mặc và thái độ giống như đàn ông (được gọi là soft-butch) thường được biết đến với tên gọi B.

Femme: những người đồng tính nữ có xu hướng ăn mặc và phong cách nữ tính.

Top: những người đồng tính nam thường là những người chủ động trong các mối quan hệ tình dục.

Những người đồng tính nam bị bắt buộc trong quan hệ tình dục.

Yaoi là thể loại nghệ thuật của Nhật Bản bao gồm tranh truyện, tiểu thuyết và truyện ngắn, với nội dung xoay quanh quan hệ tình dục giữa những nhân vật đồng tính nam. Từ “Yaoi” được tạo ra từ cụm từ “yama nashi, ochi nashi, imi nashi” có nghĩa là “không cao trào, không điểm nhấn, không ý nghĩa”, ban đầu được sử dụng để chỉ những tác phẩm hình ảnh xấu, thiếu chất lượng do giới đọc giả tự vẽ và xuất bản. Tuy nhiên, sau đó, “Yaoi” trở thành thể loại chung trong nhiều lĩnh vực nghệ thuật khác như anime, phim và game. Thường thì phụ nữ sáng tạo ra thể loại này, vì đó là cách giải trí bằng sex mà không cần phải lo lắng về việc mang thai. Thông thường, khi quan hệ tình dục xảy ra giữa nam và nữ, người đọc giả sẽ phải chọn giữa tự đóng vai nhân vật nữ hoặc tự đóng vai nhân vật nam, nhưng đều gặp phải những trở ngại. Tuy nhiên, với quan hệ tình dục giữa hai người đàn ông đẹp, việc đóng vai nhân vật nam không còn gặp phải những trở ngại đó nữa.

Tương tự như thể loại Yaoi dành cho đồng tính nam, thể loại Yuri dành cho đồng tính nữ không được phổ biến ở Nhật Bản như Yaoi. Có lẽ nguyên nhân là do các cảnh “sex nữ đồng tính” đã được đưa vào trong phim sex thông thường và xuất hiện trong nhiều truyện shōnen manga và anime. Tuy nhiên, thường thì các tác phẩm Yuri được xếp vào cùng thể loại Hentai trong danh mục sách dành cho đối tượng nam giới. Yuri là thuật ngữ Nhật Bản.

Yaoi Hentai: Thuật ngữ tiếng Nhật. Phim hoạt hình dành cho cộng đồng đồng tính.

Trong tiếng Nhật, thuật ngữ seme và uke được sử dụng để phân biệt giới tính trong mối quan hệ nam-nữ thông thường. Seme là người dẫn dắt, trong khi đó uke là người ở thế bị động. Truyền thống cho rằng seme thường có đặc điểm nam tính và lớn tuổi hơn uke, tuy nhiên, hiện nay đã có seme ít tuổi hơn uke. Ngoài ra, trong yaoi còn có từ reversible để chỉ những người đóng vai trò cả seme và uke, và vai trò của họ có thể thay đổi tùy thuộc vào đối tượng.

Tình dục qua hậu môn: hành động quan hệ tình dục thông qua đường hậu môn.

Tình dục qua miệng (hay còn gọi là Blow Job): hành động tình dục sử dụng miệng.

Sự kì thị và sợ hãi đối với người đồng tính, hay còn được gọi là homophobia, thể hiện qua những hành động miệt thị, đánh đập, thù địch, ghê tởm và sợ hãi.

Sự kì thị và sợ hãi đối với những người chuyển đổi giới tính, còn được gọi là transphobia, là những hành động hoặc hành vi mang tính phân biệt, đánh đập, thù địch, ghê tởm và đáng sợ.

Tình trạng Chứng tự sợ đồng tính, hay còn được gọi là Internalized Homophobia, là khi những cá nhân đồng tính cảm thấy bất an và khó chấp nhận bản thân cũng như người đồng tính khác vì xu hướng tình dục của họ.

Coming-Out: tiết lộ bản thân. Công khai cho người khác về định hướng tình dục đồng tính của mình.

Closet (tủ quần áo): Người giữ gìn bí mật về tính cách đồng tính của mình, trái ngược với việc công khai.

Kết hôn giữa những người cùng giới được gọi là hôn nhân đồng tính. Pháp luật đang bảo vệ quyền kết hôn giữa hai người cùng giới. Hiện nay, nhiều quốc gia trên thế giới đã chấp nhận hôn nhân đồng tính, trong đó Hà Lan là quốc gia đầu tiên (năm 2000).

Xem Thêm : My pleasure à gì? Ý nghĩa khác You’re welcome như thế nào?

Hợp đồng dân sự, hay Civil Union, được bắt đầu áp dụng tại Đan Mạch vào năm 1989. Những quyền lợi được cấp cho các cặp đôi đồng tính trong hợp đồng này bao gồm quyền sở hữu và chia sẻ tài sản, quyền nhận con nuôi, mua bảo hiểm, thăm viếng bệnh nhân trong bệnh viện, quyền đòi công đạo và bảo hiểm cho trường hợp chết oan, cũng như thuế tiểu bang. Hợp đồng này là một trong ba hình thức hợp pháp và có tác dụng gần tương đương với việc “kết hôn” (marriage) trong cộng đồng đồng tính tại Mỹ và một số quốc gia Châu Âu như Thụy Sĩ, Anh, Ireland, Hungary và nhiều quốc gia khác.

Người yêu đồng tính đang sống chung được gọi là Đối tác Nội trú. Đây là sự kết hợp hợp pháp giữa hai người, được công nhận ở ba dạng hợp pháp. Quyền lợi gần tương đương với việc “kết hôn” (marriage) được cộng đồng LGBT ở Mỹ (Nevada, Maine, Oregon, Washington, …) Và một số quốc gia khác (Australia, New Zealand, …) Có.

Sự kiện Pride (hay còn gọi là Ngày Christopher Street hoặc Diễu hành của người đồng tính) là một sự kiện quan trọng của cộng đồng LGBT trên toàn thế giới, trong đó họ tham gia diễu hành và biểu tình trên khắp các con đường để đấu tranh cho quyền lợi của mình. Các thành viên của cộng đồng LGBT cần tự hào và tự tin về tính dục và giới tính của mình, cũng như về sự đa dạng và phong phú của cộng đồng. Xu hướng tính dục và bản sắc giới tính của họ là một phần tự nhiên và không thể thay đổi. Sự kiện này thường được tổ chức vào tháng 6 hàng năm và được lấy cảm hứng từ cuộc nổi dậy Stonewall tại Mỹ vào năm 1969.

Đây là sự kiện Stonewall, diễn ra tại thị trấn Stonewall của Mỹ vào tháng 6/1969. Trong một quán bar, nhiều người đồng tính (nam, nữ) đã đứng lên chống lại sự áp bức không công bằng của cảnh sát địa phương. Sự kiện mau chóng lan rộng khắp nước Mỹ và toàn thế giới, trở thành ngọn lửa thắp sáng cho một cuộc cách mạng đòi quyền lợi cho cộng đồng LGBT.

Biểu tượng LGBT trên toàn thế giới được thể hiện qua cờ cầu vồng Rainbow. Gillbert Baker đã thiết kế nó vào năm 1978 cho Lễ diễu hành đồng tính tại San Francisco. Ban đầu, cờ có 8 màu nhưng vì một số vấn đề trong khâu in màu, màu hồng và màu lam đã bị bỏ đi. Hiện nay, cờ chính thức có 6 màu được sắp xếp theo thứ tự cầu vồng trong tự nhiên. Mỗi màu tượng trưng cho ý nghĩa khác nhau: màu đỏ tượng trưng cho sự sống, cam tượng trưng cho hàn gắn và chữa lành, vàng tượng trưng cho mặt trời, xanh lá cây tượng trưng cho thiên nhiên, xanh hoàng gia tượng trưng cho sự hài hòa và tím tượng trưng cho tinh thần.

Hình tam giác màu đen, ban đầu được sử dụng tại trại tập trung Nazi để đánh dấu cho những tù nhân “không phù hợp với xã hội” – những người đồng tính nữ. Tuy nhiên, hiện nay, nó trở thành biểu tượng của lòng kiêu hãnh và sự đoàn kết của cộng đồng đồng tính nữ.

Hình tam giác màu hồng Pink Tri-Angle, lúc đầu được sử dụng tại trại giam của chế độ Nazi để đánh dấu những tù nhân nam đồng tính. Hiện nay, biểu tượng này đã trở thành biểu tượng cho sự tự hào và sự đoàn kết của cộng đồng LGBT. Ngoài ra, LGBT còn sử dụng hai biểu tượng khác, đó là hình bướm và biểu tượng lambda của Hy Lạp.

Lưới Klein, còn được gọi là lưới thiên hướng tình dục Klein, được dùng để đánh giá thiên hướng tình dục một cách chính xác hơn bằng cách mở rộng thang đo Kinsey trước đó. Lưới này phân loại lịch sử tình dục từ 0 (hoàn toàn không đồng tính) đến 6 (hoàn toàn đồng tính). Khi tham gia khảo sát trên lưới này, người tham gia sẽ định vị mình ở mức 2 là “Phần lớn là không đồng tính, đôi khi đồng tính”, ở mức 5 là “Phần lớn là đồng tính, đôi khi không đồng tính” và giữa hai mức này là các khoảng. Mức 3 ở giữa được xác định là “Đồng tính và không đồng tính bằng nhau”.

Tiến sĩ Alfred Kinsey và các cộng sự đã phát hành hai cuốn sách vào cuối thập niên 40 và đầu thập niên 50, nghiên cứu về thái độ giới tính của đàn ông và phụ nữ dựa trên nghiên cứu về giới tính con người. Những tác phẩm này được gọi là “Báo cáo Kinsey”.

Đo lường độ đồng tính hoặc đồng tính luyến ái của một cá nhân theo một chuỗi liên tục 7-điểm được mô tả trong lý luận của Tiến sĩ Kinsey. Tỷ lệ phân loại đồng tính luyến ái hoặc dị tính luyến ái được đề cập trong lý luận đó.

Công cụ đo lường Kinsey.

Thường thường, khi một cá nhân khác giới tính có suy nghĩ, giấc mơ hoặc tưởng tượng về thành viên cùng giới, đó là một điều bình thường. Cần nhớ rằng, nếu một cá nhân đồng tính yêu thương có những suy nghĩ về tình yêu đồng tính, thì điều đó cũng là bình thường.

Do đó, ”điểm” của bạn có thể không hoàn toàn là 6 hoặc 0. Bạn đồng tính vào mức độ nào?

0- Chỉ yêu đối lập giới tính (Exclusively heterosexual).

Ưu tiên tình yêu đồng tính, chỉ khi tình yêu đồng tính xảy ra một cách tình cờ mới có trường hợp tình yêu đối lập. (Hầu hết là đồng tính, chỉ đôi khi là trái tính).

Tuy nhiên, tình yêu đồng tính ngày càng phổ biến hơn và trở thành xu hướng chính trong cộng đồng LGBT.

3- Cân bằng giữa tình yêu đối lập giới tính và đồng tính.

Tuy nhiên, tình yêu đồng tính luyến ái lại phổ biến hơn trong trường hợp này.

5- Chiếm ưu thế về tình yêu đồng tính, chỉ đôi khi có tình cảm dị tính. (Predominantly homosexual, only occasionally heterosexual)

Nguồn: https://domainente.com
Danh mục: Chia sẻ

You May Also Like

About the Author: admin

Thông tin giải trí