
Việc đặt tên trong tiếng Việt có người cho rằng vô cùng phức tạp và gây khó khăn trong giao tiếp. Tuy nhiên, liệu việc sử dụng “you, me” hay “toi, moi” giống như trong tiếng Anh và tiếng Pháp có dễ dàng hơn không? Thực tế, cách đặt tên trong tiếng Việt không hề phức tạp và không gây khó chịu. Nó rất đa dạng, rõ ràng, tuân thủ trật tự xã hội và vô cùng lịch sự. Cách đặt tên trong tiếng Việt chính nó không gây ra bất kỳ sự khó chịu nào. Nếu có khó khăn gì, đó chỉ là do người dùng không biết cách sử dụng thôi.
Việc sử dụng các cách xưng hô trong tiếng Việt thể hiện cho sự văn minh lâu đời về gia giáo và việc giao thương đối với cộng đồng. Nhờ vào sự tôn trọng lễ nghi và tuân thủ tôn ti trật tự phân minh, chúng ta có thể phân biệt được giữa các dân tộc có truyền thống văn hiến và các dân tộc mới phát triển, cũng như phân biệt được giữa loài người và loài thú.
Bạn Đang Xem: Cách xưng hô trong gia đình Việt Nam – Chân Đất
Cùng nhau học lại phong tục Việt Nam về việc gọi tên để hiểu rõ hơn. Cách gọi tên trong gia đình và họ hàng thường khác nhau tùy vào từng người. Chúng ta cũng có cách gọi tên riêng cho từng người quen trong xã hội. Tuy nhiên, trong bài viết này, chúng tôi chỉ trình bày về cách gọi tên trong gia đình.
I. Danh Xưng Dành Cho Mỗi Thứ Bậc về Liên Hệ Gia Đình
Cha mẹ của tôi được xưng là người sinh ra tôi. Ông bà của tôi bao gồm cha mẹ của cha mẹ, cô, dì, chú và bác. Cha mẹ của ông bà được gọi là cụ, còn cha mẹ của cụ được gọi là kỵ. Tổ tiên là những người tiền bối của gia đình. Các con được sinh ra bởi cha mẹ là anh chị em ruột của nhau, bao gồm các anh trai, các chị gái, các em trai và các em gái.
Anh cả hoặc anh hai là tên gọi của người con trai đầu lòng của cha mẹ, tùy thuộc vào vùng miền. Từ anh hai còn có nghĩa liên quan đến tiền trong câu ca dao “Trong túi không có anh hai thì không làm gì được”. Chị cả hoặc chị hai là tên gọi của người con gái đầu lòng của cha mẹ, tùy thuộc vào vùng miền. Từ chị cả còn có nghĩa liên quan đến vợ cả trong câu ca dao “Thấy anh, em cũng muốn chào, / Sợ rằng chị cả giắt dao trong mình.” Anh thứ hoặc anh ba là tên gọi của người con trai thứ hai, tùy thuộc vào vùng miền. Từ anh ba còn được sử dụng để gọi một người đàn ông con trai nào đó, ví dụ như trong câu ca dao “Anh Ba kia hỡi anh Ba, / Đầu đội nón dứa tay bưng ba cơi trầu.” Từ anh Ba còn có thể chỉ người đàn ông Hoa kiều.
Anh thứ bảy, người miền Bắc, là đứa con thứ bảy trong gia đình. Người Ấn Độ và người Nam Dương cũng gọi anh là anh thứ bảy. Khi chúng ta kết hôn và sinh ra con cái (bao gồm con trai và con gái), cháu của chúng ta được gọi là cháu. Con của cháu ta được gọi là chắt, con của chắt ta được gọi là chút, và con của chút ta được gọi là chít. Vợ của con trai ta được gọi là con dâu. Chồng của con gái ta được gọi là con rể. Cha mẹ ta có các anh chị em được gọi là chú, bác, cô, dì, cậu, mợ và dượng.
II. Cách Xưng Hô Trong Gia Đình
Tổ tiên đại diện cho gia đình, kỵ và cụ là các thế hệ thứ 9 và thứ 8 tương ứng, ông bà là thế hệ thứ 7 và thứ 6, con là thế hệ thứ 5, cháu là thế hệ thứ 4, chắt là thế hệ thứ 3, chút là thế hệ thứ 2 và tổ tiên là thế hệ thứ nhất. Cha mẹ được gọi là ông bà của con, trong khi ông bà ngoại hoặc nội được gọi là ông bà của cháu, phụ thuộc vào giới tính của con cháu.
Có ba loại từ để chỉ danh xưng được sử dụng khi hai gia đình có con cái lấy nhau, bao gồm thông gia, thân gia và sui gia. Khi hai gia đình sui gia giao tiếp với nhau hoặc với bạn bè, họ có thể sử dụng một số danh từ như ông bà thông gia, ông bà thân gia, ông thân, bà thân, ông bà sui gia, ông sui và bà sui.
1. Với Cha Mẹ:
Trong khi trò chuyện với bạn bè và gọi tên cha mẹ, có nhiều cách để gọi như bố mẹ, ba má, ba me, cậu mợ, thầy me, thầy bu, thân sinh, song thân, các cụ chúng tôi, ông bà nội các cháu, và ông bà ngoại các cháu, và nhiều hơn nữa. Thành ngữ “cha mẹ” có thể sử dụng trong nhiều bối cảnh khác nhau.
Có nhiều từ thay thế khi gọi mẹ như: má, mẹ, me, mệ, mợ, bu, u, vú, bầm, đẻ, vân vân. Trong khi đó, khi gọi cha, có thể dùng các từ như bố, ba, thầy, cha, cậu, tía, và còn nhiều từ khác nữa.
Số lần gọi tên mẹ nhiều hơn so với việc gọi tên cha, cho thấy mẹ có mối quan hệ gần gũi hơn với con cái so với cha. Điều này giúp tình cảm giữa mẹ và con trở nên thắm thiết hơn và có nhiều cách để gọi tên nhau hơn. Các cách gọi tên cha mẹ vợ bao gồm ông bà nhạc, ông nhạc, bà nhạc, cha mẹ vợ, cha vợ, và mẹ vợ, và nhiều hơn nữa.
Những người được nhắc đến khi nói về cha vợ bao gồm cha vợ, bố vợ, ông nội của các cháu, ông cố, nhạc sĩ, giám đốc, và nhạc trưởng, vv.
Trong khi trò chuyện với bạn bè, khi gọi mẹ vợ, có thể sử dụng các từ như mẹ vợ, má vợ, bà nhạc, bà ngoại của các cháu, nhạc mẫu và nhiều từ khác tùy vào hoàn cảnh. Khi gọi cha mẹ chồng, có thể sử dụng các từ như cha mẹ chồng, cha chồng, mẹ chồng, các cụ thân sinh của nhà tôi, ông bà nội của các cháu và nhiều từ khác có liên quan đến cha mẹ của mình. Tùy thuộc vào quy tắc gia đình, khi trò chuyện với cha mẹ vợ hoặc cha mẹ chồng, ta chỉ cần sử dụng các từ đã đề cập ở trên trong phần gọi tên mẹ cha. Người chồng thứ hai của mẹ mình có thể được gọi là cha ghẻ, kế phụ, cha, cậu hoặc dượng. Người vợ thứ hai của cha mình có thể được gọi là mẹ ghẻ, mẹ kế hoặc kế mẫu.
2. Với Anh Chị Em của Cha Mẹ và Ông Bà
Bác là người anh của cha, chú là người em trai của cha, bác gái là người chị của cha. Cô hay được gọi là người em gái của cha, và có một câu ca dao nói rằng một trăm người chú không lo, chỉ lo một nỗi người chị nỏ mồm. Người chị của cha cũng được gọi là cô hay người em gái ở một số nơi.
Bác hoặc cậu là anh của mẹ, còn bác gái hay già là chị của mẹ và dì là em gái của mẹ. Một số gia đình sử dụng từ chú và cô để gọi cậu và dì, nhằm tạo ra mối quan hệ thân thiết giữa hai gia đình bên ngoại và bên trong, mà cả hai đều được coi là bên trong.
Bác dâu là vợ của ông (anh trai hoặc em trai của cha mẹ), thím là vợ của chú, chú hoặc chú rể hoặc dượng là chồng của cô hoặc dì, bác hoặc bác rể là chồng của bác dâu hoặc ông, và mợ là vợ của cậu.
Xem Thêm : Fame là gì? Giải thích bú fame hám fame có nghĩa là gì? – Trường THPT Thành Phố Sóc Trăng
Anh trai của ông bà nội và ông bà ngoại được gọi là ông bác, còn em trai của ông nội và ông ngoại được gọi là ông chú. Chị của ông bà nội và ông bà ngoại hoặc vợ của ông bác được gọi là bà bác, trong khi em gái của ông nội và ông ngoại được gọi là bà cô. Em trai của bà nội và bà ngoại được gọi là ông cậu, và em gái của bà nội và bà ngoại được gọi là bà dì. Chồng của bà cô và bà dì được gọi là ông dượng. Tuy nhiên, trong giao tiếp hàng ngày, người ta thường gọi giản tiện là chú, bác, ông hay bà để thay thế cho chú dượng, bác gái, ông bác, ông chú, ông cậu, ông dượng, bà bác, bà cô, hay bà dì.
3. Với Anh Chị Em:
Anh hoặc bác thường được xưng tên là anh của chồng hoặc anh của vợ, trong khi nói chuyện với người khác thì sử dụng ông anh nhà tôi, anh của nhà tôi, anh vợ tôi hoặc anh chồng tôi. Trong tiếng Anh, còn sử dụng từ “husband” để chỉ chồng của một người phụ nữ như ví dụ trong câu: “Anh chồng thì đi vắng chỉ có chị vợ ở nhà mà thôi”. Chị hoặc bác thường được gọi là chị của chồng hoặc chị của vợ, trong khi nói chuyện thì sử dụng chị chồng, chị vợ, bà chị của nhà tôi, và còn nhiều cách khác. Em hoặc chú thường được gọi là em trai của chồng hoặc vợ.
Việc đặt tên cho em gái của chồng hoặc vợ có thể sử dụng các từ như em, cô hoặc dì. Từ bác, chú, cô và dì thường được sử dụng để gọi anh chị và có ý nghĩa là anh, chị hoặc em của mình trong trường hợp gọi con của mình.
4. Với Vợ Chồng:
Các từ “em, cưng, mình, bu nó, má, má mày, má nó, má thằng cu, mẹ, mẹ nó, mẹ đĩ, nhà, bà, bà xã, bà nó, ấy, mợ, mợ nó, đằng ấy, v.V.” Được sử dụng để chỉ vợ.
Các phương thức gọi vợ khi trò chuyện với người khác bao gồm gia đình tôi, mẹ tôi, mẹ con nhỏ, mẹ sắp sinh, mẹ chăm sóc con, bà nội, bà xã, bà vợ tôi, và nhiều hơn thế. Các cách gọi chồng bao gồm anh, người yêu, ông bố, bố của con, bố tôi, bố mày, ông của con, ông xã, anh trai, người chồng, cụ già, ông, và nhiều hơn thế nữa.
Gia đình tôi, ông bố của tôi, ba đứa trẻ, ba sắp có con, ba đang chuẩn bị có con, chồng của tôi, người chồng, người chồng của tôi, người đàn ông tôi kết hôn, người đàn ông đó, và những từ tương tự được sử dụng khi nói chuyện với người khác.
Gia đình người Việt thường có tình cảm sâu nặng, yêu nhau chân thành và đối xử tế nhị, tôn trọng lẫn nhau. Họ thường sử dụng những từ ngữ ý nghĩa và thể hiện tình yêu của mình bằng những cách khác thay vì sử dụng các từ xưng hô thô lỗ. Vì vậy, tiếng xưng hô giữa vợ chồng người Việt thường được sử dụng nhiều hơn so với vợ chồng người Tây. Những cặp vợ chồng giáo dục không bao giờ phát ngôn tục tĩu hoặc lăng nhục lẫn nhau, đặc biệt là trước mặt bạn bè.
5. Với Con Cháu:
Gọi con trai đầu lòng là con trai trưởng hoặc con trai trưởng nam, có người gọi thân mật là cậu trưởng tôi hoặc thằng trưởng nam nhà tôi. Vợ của con trai trưởng được gọi là con dâu và con trai trưởng nam là con dâu trưởng. Con gái đầu lòng được gọi là trưởng nữ và chồng của con gái đó là con rể. Chồng của trưởng nữ được gọi là con rể trưởng. Các con tiếp theo được gọi là thứ nam hoặc thứ nữ. Người con được sinh ra trước tiên được gọi là con cả hoặc con đầu lòng. Con trai hoặc con gái cuối cùng của gia đình được gọi là con út, út nam hoặc út nữ. Nếu vợ chồng chỉ có một con, trai hoặc gái, thì người con đó được gọi là con một. Con của vợ hoặc chồng có trước hoặc sau khi kết hôn được gọi là con ghẻ hoặc con riêng. Đứa con mới sinh ra được gọi là con đỏ và con nhỏ được gọi là con mọn. Khi người đàn ông già rồi mới có con, được gọi là cảnh cha già con mọn. Con của gia đình quyền thế được gọi là con ông cháu cha. Con của con trai được gọi là cháu nội (cháu nội trai hoặc cháu nội gái) và con trai đầu lòng của con trai trưởng nam được gọi là cháu đích tôn, đích tôn thừa tự hoặc đích tôn thừa trọng, tức là cháu trưởng nối nghiệp lớn của ông bà và giữ việc thờ cúng tổ tiên sau này. Con của con gái được gọi là cháu ngoại (cháu ngoại trai hoặc cháu ngoại gái).
III. Đặc Tính Lịch Sự và Lễ Phép Trong Cách Xưng Hô của Người Việt
Từ lâu, người Việt Nam đã có truyền thống về lễ phép và tôn trọng trong cách gọi tên. Con cháu được giáo dục để biết cách trình bày và thưa nhưng không phải vì muốn hay về vì muốn. Khi nói chuyện với bố mẹ và ông bà, con cháu thường sử dụng cách gọi tên và thưa như “Dạ con đi học” và “Dạ con đã về học” thay vì nói trống không với người cao hơn. Người Việt thường sử dụng tiếng thưa trước khi gọi tên người ở vị trí cao hơn như “Thưa mẹ, con đi học” và “Thưa ông bà, con đã về học” và “Thưa cô, con đã về”.
Cháu chúng ta thường sử dụng từ ”dạ, ạ, vâng ạ, vâng” khi trả lời cha mẹ hoặc ông bà. Khi mẹ gọi cháu: ”Tư ơi?”, Cháu phải trả lời: ”Dạ” và nếu mẹ nói tiếp: ”Về ăn cơm!”, Cháu phải nói: ”Vâng” (đối với người Bắc) hoặc ”Dạ” (đối với người Nam). Từ ”ạ” còn được sử dụng ở cuối câu để thể hiện sự kính trọng và lễ phép, ví dụ: ”Xin chào bác ạ! Vâng ạ!”.
Chúng tôi không bao giờ sử dụng tên thường gọi (tên cha mẹ đặt cho) của ông bà, cha mẹ, cô cậu, dì dượng, và chú bác khi xưng hô với người có vị trí cao hơn trong gia đình. Chúng tôi chỉ sử dụng danh xưng ngôi thứ trong gia đình. Ví dụ, nếu ông có tên là Hùng, ba có tên là Chính, và chú có tên là Tài, chúng tôi chỉ nói: ”Mời ông bà ăn cơm, mời ba má uống trà, mời cô chú đến chơi.”.
Không nên sử dụng câu hỏi trống không “cái gì” khi nói chuyện với người trên vì nó có thể nghe không lịch sự. Thay vào đó, người ta thường thay thế “cái gì” bằng từ “điều chi” để tôn trọng và lịch sự hơn. Ví dụ, thay vì hỏi “Cái gì?” Hoặc “Ba bảo con cái gì?” Thì hãy hỏi “Ba bảo con điều chi ạ?”. Từ “cái gì” chỉ nên được sử dụng khi nói chuyện với người cùng cấp bậc. Ví dụ: “Anh hỏi tôi cái gì?” Hoặc “Chị nói cái gì vậy?”.
Sử dụng các từ anh, chị, hay em trước tên hoặc ngôi thư khi giao tiếp với anh chị em. Ví dụ: “Hùng đi vắng, An đang học bài, Kim ra má bảo, và còn nhiều trường hợp khác.”
Không được phép đặt tên trống khi gọi anh chị, nhưng các em có thể sử dụng từ “em” trước tên hoặc sử dụng tên đầy đủ. Ví dụ: “Chị bảo cái này cho em Hải” hoặc “Chị bảo cái này cho Hải”.
Không nên gọi nhau bằng các từ “mày” và “tao” trong một gia đình có giáo dục. Những thành viên trong gia đình nên sử dụng các từ phù hợp để gọi tên lẫn nhau. Thói quen sử dụng các từ này có thể phản ánh sự thiếu hiểu biết của bố mẹ trong việc dạy dỗ con cái từ nhỏ. Tuy nhiên, nếu đã trở thành phong tục trong gia đình, việc thay đổi cũng không dễ dàng.
Cha mẹ cần dạy cho con cách sử dụng từ ngữ phù hợp khi chào hỏi người khác từ khi còn nhỏ. Cha mẹ nên hướng dẫn cho con biết cách chào hỏi đúng người đúng cách và yêu cầu con lặp lại. Ví dụ, khi cha mẹ nói: “Xin chào bác con ạ!”, Con cần trả lời: “Chào bác ạ!”.
Xem Thêm : Oggy cho Android 1.3.1 – Game chạy cùng mèo Oggy hài hước – Download.com.vn
Khi có người thân quen đến thăm nhà, bố mẹ cần giới thiệu họ với các con và hướng dẫn cách chào hỏi. Nếu có khách đến và các con đang chơi ở ngoài hay trong phòng, ta nên gọi chúng ra để chào đón người thân.
Nếu trong nhà có khách, khi cha mẹ đến thăm nhà của con cái, các con phải giới thiệu cha mẹ với khách và giới thiệu khách với cha mẹ. Việc gọi tên trong cuộc trò chuyện sẽ trở nên tự nhiên và thân mật hơn. Dù bận rộn đến đâu hoặc vì bất kỳ lý do gì, ta cũng phải thực hiện việc giới thiệu khi có khách đến thăm nhà để mọi người có thể quen biết và dễ dàng gọi tên nhau. Những người có vị trí cao hơn hoặc bậc trên phải được giới thiệu trước.
Để giáo dục trẻ em, việc nhắc lại chào hỏi nhiều lần là cần thiết hơn là hy vọng rằng chúng sẽ nhớ chỉ sau một lần nhắc. Theo một nhà giáo dục người Pháp, “việc nhắc lại” là yếu tố quan trọng trong quá trình giáo dục. Trong giáo dục, “nhắc lại” hay “lập đi lập lại” có nghĩa là thường xuyên ôn tập, giống như việc ôn văn hay luyện vũ.
Để duy trì sự gần gũi giữa bà con, cần phải sử dụng đúng cách các từ xưng hô. Nếu không, quan hệ giữa bà con sẽ dần trở nên xa cách. Để tạo sự kết nối lâu dài trong gia đình và họ hàng, cần sử dụng câu chào và lời mời đúng cách. Vì vậy, chúng ta có một tục ngữ quen thuộc là “Lời chào quan trọng hơn mâm cỗ”.
Không nên quá nghiêm túc khi hướng dẫn trẻ về cách gọi tên và chào hỏi. Để giáo dục trẻ tốt nhất, chúng ta nên giải thích và khuyến khích. Nếu trẻ quen với cách gọi tên ở Bắc Mỹ và chào bạn là “Hi Bác!”, Chúng ta không nên tức giận mà chỉ cần tươi cười và xoa đầu trẻ, sau đó chỉ cho chúng cách gọi tên đúng của người Việt: “Chào Bác ạ!”. Đừng bao giờ nổi giận với trẻ vì chúng chưa hiểu biết và cần được hướng dẫn. Khi ta nổi giận, người khôn trở nên ngu dốt và người hiền trở thành dại ngốc.
Phụ thuộc vào mức độ quen thuộc, cách gọi và chào hỏi có thể khác nhau. Nếu chúng ta thường xuyên quan tâm, thăm hỏi và chăm sóc trẻ một cách chân thành, trẻ sẽ đánh giá cao chúng ta và tự nhiên chào hỏi chúng ta thường xuyên.
Việc giáo dục trẻ em về cách xưng hô và chào hỏi yêu cầu sự kiên nhẫn, tinh tế và nghệ thuật. Không nên ép buộc trẻ em. Nếu trẻ không muốn chào hỏi, ta cần giải thích từ từ cho chúng hiểu. Khi chúng hiểu, chúng sẽ vui vẻ chào đón khách. Đừng quá khắt khe với chúng, vì có thể tạo ra sự bất hoà.
IV. Danh xưng Tiếng Việt & Tiếng Hán
Ông sơ, bà sơ: Cao tổ phụ, cao tổ mẫu. Chít: Huyền tôn. Ông cố, bà cố: Tằng tỉ phụ, tằng tỉ mẫu. Chắt: Tằng tôn. Ông nội, bà nội: Nội tổ phụ, nội tổ mẫu. Cháu nội: Nội tôn. Ông nội, bà nội chết rồi thì xưng: Nội tổ khảo, nội tổ tỷ. Cháu xưng là: Nội tôn. Cháu nối dòng xưng là: Đích tôn (cháu nội). Ông ngoại, bà ngoại: Ngoại tổ phụ, ngoại tổ mẫu (cũng gọi là ngoại công, ngoại bà). Ông ngoại, bà ngoại chết rồi thì xưng: Ngoại tồ khảo, ngoại tổ tỷ. Cháu ngoại: Ngoại tôn. Ông nội vợ, bà nội vợ: Nhạc tổ phụ, nhạc tổ mẫu. Ông nội vợ, bà nội vợ chết rồi thì xưng: Nhạc tổ khảo, nhạc tổ tỷ. Cháu nội rể: Tôn nữ tế. Cha mẹ chết rồi thì xưng: Hiển khảo, hiền tỷ. Cha chết rồi thì con tự xưng là: Cô tử, cô nữ (cô tử: con trai, cô nữ: con gái). Mẹ chết rồi thì con tự xưng là: Ai tử, ai nữ. Cha mẹ đều chết hết thì con tự xưng là: Cô ai tử, cô ai nữ. Cha ruột: Thân phụ. Cha ghẻ: Kế phụ. Cha nuôi: Dưỡng phụ. Cha đỡ đầu: Nghĩa phụ. Con trai lớn (con cả, con thứ hai): Trưởng tử, trưởng nam. Con gái lớn: Trưởng nữ. Con kế. Thứ nam, thứ nữ. Con út (trai): Quý nam, vãn nam. Gái: quý nữ, vãn nữ. Mẹ ruột: Sanh mẫu, từ mẫu. Mẹ ghẻ: Kế mẫu: Con của bà vợ nhỏ kêu vợ lớn của cha là má hai: Đích mẫu. Mẹ nuôi: Dưỡng mẫu. Mẹ có chồng khác: Giá mẫu. Má nhỏ, tức vợ bé của cha: Thứ mẫu. Mẹ bị cha từ bỏ: Xuất mẫu. Bà vú: Nhũ mẫu. Chú, bác vợ: Thúc nhạc, bá nhạc. Cháu rể: Điệt nữ tế. Chú, bác ruột: Thúc phụ, bá phụ. Vợ của chú: Thiếm, Thẩm. Cháu của chú và bác, tự xưng là nội điệt. Cha chồng: Chương phụ. Dâu lớn: Trưởng tức. Dâu thứ: Thứ tức. Dâu út: Quý tức. Cha vợ (sống): Nhạc phụ, (chết): Ngoại khảo. Mẹ vợ (sống): Nhạc mẫu, (chết): Ngoại tỷ. Rể: Tế. Chị, em gái của cha, ta kêu bằng cô: Thân cô. Ta tự xưng là: Nội điệt. Chồng của cô: Dượng (Cô trượng, tôn trượng). Chồng của dì: Dượng (Di trượng, biểu trượng). Cậu, mợ: Cựu phụ, cựu mẫu. Mợ còn gọi là: Câm. Còn ta tự xưng là: Sanh tôn. Cậu vợ: Cựu nhạc. Cháu rể: Sanh tế. Vợ: Chuyết kinh, vợ chết rồi: Tẩn. Ta tự xưng: Lương phu, Kiểu châm. Vợ bé: Thứ thê, trắc thất. Vợ lớn: Chánh thất. Vợ sau (vợ chết rồi cưới vợ khác): Kế thất. Anh ruột: Bào huynh. Em trai: Bào đệ (cũng gọi: Xá đệ). Em gái: Bào muội (cũng gọi: Xá muội). Chị ruột: Bào tỷ. Anh rể: Tỷ trượng. Em rể: Muội trượng. Anh rể: Tỷ phu. Em rể: Muội trượng, còn gọi: Khâm đệ. Chị dâu: Tợ phụ, Tẩu, hoặc tẩu tử. Em dâu: Đệ phụ, Đệ tức. Chị chồng: Đại cô. Em chồng: Tiểu cô. Anh chồng: Phu huynh: Đại bá. Em chồng: Phu đệ, Tiểu thúc. Chị vợ: Đại di. Em vợ (gái): Tiểu di tử, Thê muội. Anh vợ: Thê huynh: Đại cựu: Ngoại huynh. Em vợ (trai): Thê đệ, Tiểu cựu tử. Con gái đã có chồng: Giá nữ. Con gái chưa có chồng: Sương nữ. Cha ghẻ, con tự xưng: Chấp tử. Tớ trai: Nghĩa bộc. Tớ gái: Nghĩa nô. Cha chết trước, sau ông nội chết, tôn con của trưởng tử đứng để tang, gọi là: Đích tôn thừa trọng. Cha, mẹ chết chưa chôn: Cố phụ, cố mẫu. Cha, mẹ chết đã chôn: Hiền khảo, hiển tỷ. Mới chết: Tử. Đã chôn: Vong. Anh em chú bác ruột với cha mình: Đường bá, đường thúc, đường cô, mình tự xưng là: Đường tôn. Anh em bạn với cha mình: Niên bá, quý thúc, lịnh cô. Mình là cháu, tự xưng là: Thiểm điệt, lịnh điệt. Chú, bác của cha mình, mình kêu: Tổ bá, tổ túc, tổ cô. Mình là cháu thì tự xưng là: Vân tôn.
Nguồn: Domainente.
O0o.
Tài Trợ
Hãy nhớ bấm Thích/Bình luận/Chia sẻ bài viết/clip nếu bạn cảm thấy nó hữu ích để tiết kiệm thời gian, nỗ lực và tiền bạc. Hoặc bạn có thể giúp đỡ Cóc để tạo ra nhiều nội dung và video có ích hơn cho cộng đồng.
Số liên lạc của Cóc ly cafe mà Donate đề cập là Domainente/0935658663, bạn có thể liên hệ qua Vietcombank – CN Tan Binh (Tp.HCM) – Tran Trong Cu – số tài khoản: 0441003808551 để ủng hộ.- Nếu bạn muốn đóng góp qua Paypal, hãy truy cập vào tài khoản Domainente/tomtraan.- Bên cạnh đó, bạn cũng có thể giúp đỡ Cóc sản xuất video bằng cách truy cập vào Domainente/chandat.
► Tự học kỹ năng cắt ghép video, thêm nhạc và hình ảnh cho người mới bắt đầu tại Domainente/davincifree.
Đăng ký hoàn toàn miễn phí trên sàn OKEx tại Domainente/okexfree.- Đăng ký miễn phí tại sàn Binance tại https://cutt.Ly/binfree.- Đăng ký hoàn toàn miễn phí trên sàn Remitano tại Domainente/remifree.- Đăng ký miễn phí tại sàn Huobi tại Domainente/huobifree.
► Domainente là trang web của Chân Đất và nhà của Cóc. ► Chân Đất có kênh youtube là Domainente/chandat. ► Chăn Dắt Bang là nhóm trên facebook của Chân Đất. ► Domainente cũng là trang fanpage của Chân Đất. ► Quản trị viên của trang facebook của Cóc là Domainente/luckyluke1080. ► Để liên lạc với hai bạn, có thể gửi email tới địa chỉ [email protected]
❥ Các phương tiện làm video:
Nguồn: https://domainente.com
Danh mục: Chia sẻ