
Sai khiến là Lịch sử; Trói buộc là Ràng buộc. 10 Lịch sử Ràng buộc là mười thứ căn bản trói buộc và sai khiến chúng ta, bao gồm: Tham, sân, si, mạn, nghi, thân quen, biên quan, quan chức, giới hạn chức và tà quan. Tập Đế, tức là 10 nguyên nhân căn bản sinh ra vô biên thứ khổ của kiếp nhân sinh, còn gọi là 10 Ràng buộc lịch sử. Chúng có mãnh lực trói buộc loài người không cho ra khỏi ba cõi. Chúng sai lịch sử làm chúng sanh trôi lăn trong vòng sanh tử luân hồi; và phải chịu không biết bao nhiêu điều khổ não từ đời này đến kiếp sau.
- Tuyển tập 60 những câu tiếng Hàn thông dụng hàng ngày có phiên âm
- Ba con sói là cái gì? BCS ba con sói dùng để làm gì?
- Tổng hợp pov là gì | Sen Tây Hồ
- {REVIEW} Son VONGEE nội địa trung có tốt không? (Bản litmted, 5 cây và 6 cây) – ChonMyPhamTot
- Kiều Ở Lầu Ngưng Bích Là Gì, Phân Tích Kiều Ở Lầu Ngưng Bích (15 Mẫu)

Có loại nhanh nhẹn, có loại chậm chạp; có loại mãnh liệt, có loại yếu ớt; có loại đâm sâu gốc rễ trong lòng người, có loại nằm khơi khơi ở trên ý thức; có loại dễ dứt trừ, có loại khó tiêu diệt. Vì tính chất không giống nhau đó, đức Phật đặt cho chúng những danh từ khác nhau, để dễ phân biệt, như Kiết sử, Kiến hoặc, Tư hoặc. Tính chất của mười món căn bản phiền não này không tương tự.
Bạn Đang Xem: 10 Kiết sử là những gì – Vì sao Kiết Sử còn được gọi là Tập Đế?
Ngọn ngành không đau đớn vô số khi sanh ra mà người ta gọi là sử Kiết mười do gốc không đau đớn căn là gọi, không gốc không không rộng thì lại hẹp nói, ngàn bốn muôn tám đến thì rộng nói. Nhiều rất không đau đớn. Ta chúng tâm thân loạn đau đớn làm, quấy sai niệm ý những xa xấu vọng dục những nhâm lầm mê đau đớn các là mê không đau đớn các do hồi luân tử sanh của gốc Cội: dạy Phật.
10 Kiết Sử: 1. Tham
Ý nghĩa của tham là tham lam. Tính tham có động lực để ta quan sát, theo dõi những thứ mà nó thích, như tiền bạc, danh tiếng, thức ăn, nơi ở v.V… Nó thúc đẩy ta lập kế hoạch này, thử kia để tìm kiếm những thứ đó. Điều nguy hiểm nhất là lòng tham không có giới hạn, tích trữ bao nhiêu cũng không đủ; Muốn có một thứ, muốn có mười thì muốn có trăm. Tham cho bản thân chưa đủ, còn tham cho gia đình và quê hương của mình.
Xung đột con vợ mẹ cha mà vì lòng tham; chìa lìa bạn bè mà vì lòng tham; trở lại đồng bào xung đột xâu xé mà vì lòng tham; tiếp diễn chiến tranh mà vì lòng tham, giết hại linh không biết sinh sống. Tóm lại, nhân loại vì lòng tham, chúng sanh chịu không biết bao nhiêu khổ đau. Không chỉ gây tổn thương cho bản thân và người khác, trong hiện tại mà còn ảnh hưởng đến tương lai.
10 Kiết Sử: 2. Sân
Mất vị trí, người tan sự nghiệp, kẻ mất vị trí, người vào kiểm tra đường, kẻ bị tàn tật, Vì tức giận mà con người đua nhau ra chiến trường; Vì tức giận mà đồng bào trở nên thù địch, bạn bè tan rã; Vì tức giận mà anh em xa lìa, vợ con, cha mẹ; Vì tức giận mà lòng ta đau khổ, sử dụng sức mạnh hoặc quyền lực để xử lý kẻ đã làm trái ý, có thể nói hung dữ, hành vi thô lỗ, mặt đỏ tía hoặc tái xanh, thế là sân nổi lên, như một ngọn lửa dữ đốt cháy lòng ta, khi gặp những tình huống không như ý muốn, thì sân nghĩa là tức giận.
Một ý đau đớn trỗi dậy, thì hàng ngàn khó khăn trở ngại đều mở ra. Nhất ý đau lòng khởi, bách vạn trở ngại mở cửa. Nghĩa là một tia lửa giận, có thể đốt cháy tất cả muôn loài rừng công đức. Nhất tinh chi lửa, năng thiêu muôn khoảnh công đức chi núi. Lửa ý đau đã bùng cháy lên giữa lòng nhân loại, và đã đốt cháy không biết bao nhiêu là công lao, sự nghiệp mà nhân loại đã tốn bao nhiêu mồ hôi và nước mắt để tạo nên. Sách Phật viết, Kinh Hoa Nghiêm viết.
10 Kiết Sử: 3. Si
Si nghĩa là si mê, mờ ám. Như là một tấm màn dày đặc, tối tăm trùm lên trí tuệ của ta, khiến cho ta không thể nhìn thấy được sự thật, đánh giá được điều tốt, điều xấu, điều hay, điều dở. Do đó, ta gây ra không biết bao nhiêu tội lỗi; Gây hại cho mình, gây hại cho người mà không hay. Vì si mà lòng tham trở thành vô tận. Bởi vì nếu người sáng suốt nhận ra tác hại của lòng tham, thì người ta đã kiềm chế được một phần nào tham lam. Vì si mà lửa sân tự do bùng cháy; Nếu người sáng suốt biết tác hại của lửa sân thì không để cho nó lan rộng như thế.
Cấu trúc câu trong đoạn văn đã được đảo ngược: “Duy khủng tự giác trì, bất úy tham sân khởi. Nghĩa là chỉ sợ mình giác ngộ chậm, không sợ tham và sân nổi lên. Một cách dễ hiểu hơn là chỉ sợ si mê, không sợ tham và sân. Thật đúng như thế: Nếu có trí sáng suốt ngăn chận lại, thì tham và sân tất kiềm chế được. Nếu có trí huệ, sáng suốt thì tham và sân không thể tồn tại được; Như khi đã có ánh sáng mặt Trời lên, thì bóng tối tất nhiên phải tự tan biến. Ba món độc này, Phật gọi là ba tánh tham, sân, si; Vì do chúng nó mà chúng sanh phải chịu nhiều kiếp sanh tử luân hồi, đọa vào địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh.”
10 Kiết Sử: 4. Mạn
Xem Thêm : Trọng Lượng Kí Hiệu Là Gì – Kí Hiệu Của Trọng Lượng Là Gì
Có bảy thứ kiêu mạn. Kiêu mạn nghĩa là tự cao tự đại và khinh thường người khác. Kiêu mạn tự cho mình là quan trọng và coi thường mọi người. Kiêu mạn tự tin rằng có tiền, tài trí và quyền lực nên tự mãn và kiêu ngạo. Kiêu mạn coi thường người già, lừa dối những người có đức hạnh, áp đặt lên người khác và đè đầu lên người khác. Vì kiêu mạn cho rằng mình vượt trội hơn hết, nên không chịu học hỏi và không nghe lời khuyên. Kiêu mạn làm nhiều lỗi sai, gây ra những hậu quả xấu và tăng thêm tội lỗi. Kiêu mạn phải trải qua vòng luân hồi không bao giờ kết thúc.
10 Kiết Sử: 5. Nghi
Nghi nghĩa là nghi ngờ, không có lòng tin. Người nghi ngờ không thể thực hiện được bất kỳ công việc nào. Với người thân trong gia đình, họ không tin tưởng để giao phó công việc; Đối với bạn bè, họ nghi ngờ mọi sự thiện chí. Thậm chí đối với chính bản thân, họ cũng không tự tin nữa. Sự thiếu tự tin này còn gây hoang mang cho mọi người xung quanh, làm cho mọi người mất lòng tin, mất niềm tin. Đối với đạo đức chân chính, họ cũng không nhiệt tình tin theo. Những phương pháp tu giải thoát và những việc lành, họ không làm vì nghi ngờ. Nghi ngờ có ba mặt: .
*
1. Không tu, vì thế không ngờ nghi do lòng không ngờ nghi tu bản thân biết không rằng nghi tự lại nhưng thoát được giải sẽ thực hiện tu bản thân có được không biết không như bảo tăng chư nghe như hạn tu “Thực hiện tu sẽ thoát giải”.
Nghi thức: Ý là ta tuân thủ phương pháp nghịch. Chẳng hạn như nghe kinh Di Đà nói: ”Người suy ngẫm tâm chí Phật, từ một ngày cho đến bảy ngày, một lòng không bị rối loạn. Khi đến lúc qua đời sẽ được Phật Di Đà dẫn đưa về nước Tịnh độ”; Nhưng họ lại hoài nghi ”Phương pháp đó liệu có có kết quả chính xác như vậy không?” Mà không tự do sự nghi ngờ đó.
3. Nghi nhơn: Mình được hướng dẫn là nên làm đồng lòng để nhận được phước lành, thực hiện những việc ác sẽ bị kết tội. Tuy nhiên, mình lại hoài nghi về sự đúng đắn của những điều này. Vì sự hoài nghi đó, mình không làm gì cả. Tóm lại, sự hoài nghi tạo nên rào cản cho sự tiến bộ của mình, ngăn chặn mọi hoạt động có ích và khiến cuộc sống bị giam cầm trong bóng tối đau khổ.
10 Kiết Sử: 6. Thân kiến
Của vì Tôi cái cũng vì trường chiến đấu một thành trở thành giới thế và Tôi vì khổ đau họ cho làm, Tôi cái nhiều lên đạp chà; lỗi tội điều lắm ra tạo mà ấy Tôi cái cho sự phục vụ quý sự Do. Người mọi với diện hãnh cho ruộng đất cải của nhiều thật góp Thâu; ở cho lớn cửa, cao nhà dựng xây lo mặc Tôi co đẹp áo quần sắm May ăn Tôi cho lạ vật, ngon món kiếm nên thế như lầm tưởng Vì. Báu quý rất thứ một là và khác người đến dấp dính không, tôi của riêng là ấy Tôi cái thấy, đổi biến không thật chắc biệt riêng Tôi cái ấy sai lầm chấp cái vì này hiệp giả đại tứ ấm ngũ thân chấp là nghĩa kiến Thân.
10 Kiết Sử: 7. Biên kiến
Lỗi lớn nhất trong việc chấp nhận ý kiến đối lập là không có sự cân nhắc kỹ lưỡng và nhất quán giữa hai quan điểm.
“Thường kiến ngoại đạo” được gọi là đọa Phật. Bởi vì họ cho rằng tu tập và không tu tập đều như nhau. Vì vậy, họ không sợ tội lỗi và không thích làm điều tốt. Ý nghĩa của điều này là họ tin rằng sau khi chết, Thân vẫn tiếp tục tồn tại mãi mãi: Người chết sẽ sinh ra người khác, động vật chết sẽ trở thành động vật khác, và những người thánh chết sẽ trở lại trở thành những người thánh khác.
2. Cấu trúc câu đã bị đảo ngược: “Khi tắt hơi thở, không còn sự tồn tại nào khác; Không còn tội lỗi cũng như phước lành. Với những người có quan điểm tận thế, họ cho rằng chết đi là mất hẳn. Họ tự nói: “Người có đức tích cực cũng chết; Hung ác, bạo lực khi tắt thở cũng không còn gì”. Họ không tin vào sự tái sinh của nhân quả, vì vậy họ đều làm những việc gây tội lỗi.”
Xem Thêm : Truyện ngụ ngôn là gì? Lịch sự phát triển và những đặc điểm cơ bản
Đoạn kiến ngoại đạo, gọi Phật kinh này chấp lối! Hết chết rỗi vẫn chưa, rằng ngờ có đâu họ đời kết thúc để sông dòng hay thuốc chén mượn ngần không đã nên tất thoát giải là khổ đau hết là đều tất cả thoát giải là khổ đau hết đau là hết là chết rằng tưởng trở trắc duyên tình chuyện những ý nghịc lòng buồn cảnh những trước đối trước người có.
10 Kiết Sử: 8. Kiến thủ
Kiến thức là việc đối mặt với sự hiểu biết sai lầm của chúng ta. Kiến thức có hai khía cạnh.
Mình nghe cũng không ai nói, mình cho là giỏi; Hành vi, quan điểm của mình cố hữu, vì không đủ thông minh để nhận ra, nên mình không nhận ra sai lầm của mình; Mình sai lầm quan điểm, mình sai quấy hành vi của mình vì không nhận thức được; Kiến thủ vì không nhận thức được sai lầm của mình.
Không chịu thay đổi, họ cứ nói một cách táo bạo: “Ngày xưa thế nào giờ vậy”, hay “Ngày xưa nó làm như thế này”. Vẫn cứ bảo thủ nghề ấy không chịu thay đổi nghề khác. Biết mình làm như thế là sai, nói như vậy là kém. Nhưng vì tự hào, cứ bảo thủ cái sai cái kém của mình, không chịu thay đổi. Như ông bà trước đã lỡ theo tà giáo, nay con cháu vẫn biết đó là tà, nhưng cứ theo như thế mãi không chịu thay đổi. Kiến thức vì tự hào hay vì cố chấp.
Cả “Người tôn kính” và tín đồ đều đồng tình, nhưng tín đồ thể hiện những quan điểm cố định. V.V… Ma quỷ và thần tế cúng để họp phải hàng năm. Mỗi bộ trang phục đều bạc và vàng, tiền giấy được đốt để cúng kính hay gọi là tuần tự. Mỗi con phố đều có sự biểu diễn của những vị tướng lớn và những con heo con theo sau trong đám tang; cúng kính kiến để giết heo là hành động đáng trách và làm chết người. Những người có nhà trong những thời điểm như vậy vẫn giữ lại nhưng tiến bộ và thời đại đã thay đổi, mặc dù có nhiều người trên thế giới, trong nhiều khía cạnh.
10 Kiết Sử: 9. Giới cấm thủ
Thực hiện theo quy định cấm của tôn giáo độc hại là lập trường cấm đoản. Nhưng sự quy định này thỉnh thoảng thật vô lý, ngớ ngẩn, tàn ác; Vẫn có nhiều người tin và tuân theo, không có cách nào đưa người ta đến sự giải thoát được.
Thiếu một đoạn văn nhập vào.
10 Kiết Sử: Tà kiến
Cả bốn món thuộc vào Tà kiến cả, đều là mê tín dị đoan. Như thờ đầu trâu, đầu cọp, bình vôi, ông táo; Xin xâm, bói quẻ, buộc tôm, đeo niệt, coi sao, cúng hạn v.V… Tà kiến nghĩa là chấp theo lối tà, không chính đáng, không đúng sự thật, không tuân theo luật nhân quả.
(10 Kiết Sử là gì – Theo Đạo Phật Phổ Biến).
Tuệ Tâm năm 2021.
Nguồn: https://domainente.com
Danh mục: Chia sẻ